Phục hổ thu đồ đệ - Truyện cổ Phật Giáo

Vậy sao???

 

Thiền sư Hakuin là một Tăng sĩ được cư dân quanh vùng ca tụng và kính trọng như một ông Phật sống.

Gần tịnh thất của sư có một thiếu nữ rất đẹp. Một hôm, cha mẹ mỹ nhân chợt khám phá con mình có mang.

Qua biết bao là phiền phức, mỹ nhân thú thật rằng: Thiền sư chính là người tình vụng trộm của mình. Bao nhiêu danh thơm tiếng tốt của sư đều đổ xuống bùn nhơ cả. Bà mẹ dẫn cô gái đến gặp thiền sư. Đáp lại trận mưa ngôn ngữ thịnh nộ của khách. Sư chỉ mở  mắt hỏi:

- Vậy sao?

Khi đứa bé chào đời, nó được bà ngoại mang đến tịnh thất với những lời sỉ vả cay đắng kèm theo. Từ dạo đó cư dân thường thấy thiền sư đi trì bình với một đứa bé trên tay. Sư nuôi nấng đứa trẻ rất tử tế…chú bé lớn lên rất bụ bẫm…chú tập bò, đứng và đi lẫm đẫm quanh chiếc thiền sàng của Sư. Chỉ khi nào đứa bé ngủ sau, sư mới đi tọa thiền được.

Hơn một năm sau, mỹ nhân thú thực rằng: Cha chú bé không phải là thiền sư Hakuin.

Sau bao nhiều lời sám hối dài dòng và phiền toái. Thiền sư trao đứa bé lại cho bà ngoại chú, cũng với hai tiếng: “Vậy sao?”.

Ngôi tịnh thất im lìm trở lại, vắng bặt tiếng u ơ của trẻ thơ và thiền sư đi trì bình chỉ vỏn vẹn cái bình bát.

Cư dân lại ca tụng và kính trọng sư như một ông Phật sống.

Như Thủy

Con ai đem bỏ chùa này?

Nam Mô Di Phật! Con thầy thầy nuôi!

 

Vết thương nặng nhất

 

Sau một thời gian thương thuyết giữu bộ giao thương nước La Duyệt Kỳ với bộ giao thương các nước phía nam La Duyệt Kỳ, con đường giao thông giữa các nước đó được chính thức mở rộng. Thế là ước vọng từ lâu của nhân dân, nhất là hạng thương gia được hoàn mãn.

Nhưng than ôi! Con đường ấy ở cách thành La Duyệt Kỳ khoảng 200 dặm, nơi biên giới của hai nước phải xuyên qua một dãy núi trùng điệp, chọc trời, lại lắm hố hầm và hẻo lánh. Một lũ giặc cướp năm trăm tên đã nhiều phen lợi dụng địa thế hiểm yếu đó chận người cướp của. Vì thế cho nên đa số khách buôn mỗi khi ngang qua đó đều bị cướp sạch của cải, hàng hóa và đôi khi còn không bảo toàn được tánh mạng nữa.

Đường hẻo lánh càng lắm, tai biến càng nhiều, sự giao thông giữa các nước cơ hồ như đến chỗ bế tắc! Quốc Vương La Duyệt Kỳ hay tin, đã đôi phen hạ lệnh phái binh mã thiện chiến lùng xét nhưng vẫn bất lực trước những dãy núi ấy.

Bấy giờ, với lòng từ vô hạn, đức Thế Tôn nghĩ: “Bọn giặc kia có mắt mà không thấy sự thật, có tai mà không lúc nào nghe lẽ phải, phải chăng vì thế mà không biết nhân quả, tội phước chi cả. Nếu ta không đến cứu độ thì tội ác của chúng ngày càng nặng, rồi mai kia chúng sẽ không thoát khỏi đắm chìm trong đau khổ. Như thế thì có khác gì tảng đá nặng chìm xuống đáy bể. Nghĩ vậy, đức Thế Tôn liền đến núi ấy với một thân hình thanh niên vạm vỡ, phục sức tuyệt mỹ, lưng mang kiếm báu, trên tay lại nắm cung tên và cưỡi trên ngựa quý cũng trang sức bằng những vật vô giá.

Bốn vó ngựa phi nhanh, cây cối hai bên đường nhấp nhô như tiễn người chiến sĩ lên đường tranh đấu cho an bình của quần chúng. Ngựa chạy thâu đường, tiếng reo của lục lạc bằng vàng như đánh thức sự chú  ý của bọn giặc. Tên đầu đảng đứng trên cao nhìn xuống, xa xa trông thấy chàng thanh niên trên vó ngựa với vô số bạc vàng, châu ngọc lấp lánh dưới ánh nắng mai, lòng vô cùng vui sướng vì sống với nghề ấy xưa nay mà chưa có dịp nào tốt như thế. Ma tham dục hối thúc, tức thì anh ta xuống đồi ra lệnh cho toàn đảng bố trí sẵn sàng…

Xung phong! Xung phong! Tiếng la hét của bọn cướp long trời lở đất và tiếp theo chúng phóng vô số dao tên bay về phía chàng thanh niên vùn vụt…

Nhanh như chớp, chàng thanh niên ấy gương cung bắn trả, tức thì mỗi tên cướp đều bị một mũi tên cắm sâu vào mình. Dù chúng ta đã lanh trí, rút tên cắm sâu vào mình. Dù chúng đã lanh trí, rút tên ra để đắp vào thứ lá thuốc mà chúng luôn phòng bị trong mình, nhưng tên rút không ra, thuốc vẫn vô hiệu quả. Năm trăm tên cướp không chống cự được nữa đành thất vọng thả vũ khí trên tay, ngã lăn xuống đất, rên la thảm thiết và cầu xin đầu hàng.

- Ngài là thần thánh chăng mới có oai lực như thế. Chúng con hạng người ngu dại đảo điên, xin ngài thương tình tha thứ và cứu vớt những sinh mạng bé nhỏ của chúng con. Chúng con đau nhức lắm, không thể chịu nổi:

- Vết thương ấy có đau gì mấy! Mũi tên kia có sâu bao nhiêu! Trong đời này chỉ có vết thương tham lam ích kỷ mới sâu nhất và sự ngu si giết hại người mới nặng nhất. Thế mà nay tham lam và ngu muội các ngươi còn giữ trong lòng, ta e rằng vết thương kia không bao giờ lành được. Vả lại, một khi hai gốc rễ ấy ăn sâu vào tâm địa thì dù sức mạnh như thần cũng không nhổ được mũi tên ấy. Chỉ có khi nào các người biết theo đạo đức để sửa mình, hiểu rõ chánh lý để tu tập may ra mới làm bật rễ được vết thương tham muốn và ngu muội trong lòng. Có thế thì không những nhổ được mũi tên, lành được vết thương mà còn an ổn dài lâu nữa. Vậy các ngươi hãy chế phục ngã mạn, sa thải bớt dục vọng ngu si bằng cách: Cố gắng tích đức tu nhơn theo chánh pháp của đấng Năng Nhơn Vô Thượng.

Nói mấy lời đó xong, chàng thanh niên lại hiện nguyên hình đức Phật nói tiếp mấy bài tụng:

Vết thương không thể hơn tham dục

Tên độc không thể hơn ngu si.

Tráng sĩ không tài gì nhổ được

Trừ chăng chỉ có sự tu hành.

Từ đây cũng như mù được thấy

Người si ám trở lại thông minh,

Ta giáo hóa mọi người ở đời

Như đem mắt cho người ở đời

Vậy các ngươi nên gấp trừ si ám

Và sa thải dục vọng kiêu sa

Tiến bước trên con đường chánh pháp

Mới là người tích đức tu nhơn.

Bấy giờ năm trăm tên giặc cướp thấy tướng tốt của Phật, lại nghe được mấy bài tụng ấy, đều cúi đều cảm mộ và ăn năn những tội ác ngày trước. Liền khi ấy, dao tên trên mình chúng đều rơi rụng tất cả xuống đất, và những vết thương kia bỗng chốc không còn thấy nữa. Sung sướng được thoát nạn và cảm mến ân giáo hóa của đức Phật, năm trăm tên cướp không ai bảo ai mà tất cả đều quỳ trước đức Phật mà cầu xin rằng:

- Kính lạy Ngài, chúng con hôm nay nhờ ơn pháp nhũ của Ngài mà rõ sự thật…Vậy xin Ngài cho chúng con quy y và trì năm giới.

Từ đấy con đường giao thông phía nam nước La Duyệt Kỳ, người đi buôn bán càng tấp nập hơn xưa, không còn nghe thấy kẻ đón đường giựt của nữa.

T.M.L

Ai lo lửng như thuyền nan không bến

Ai hận đời không một chút tình thương

Ai thấy mình sao lạnh lẽo thê lương

Mơ kiếp sống đượm mùi hương giải thoát.

Thì đây:

Mắt Thế Tôn nhìn xa ngoài muôn dặm

Lòng Thế Tôn như bể thẳm xanh màu

Tay hiền từ đốt đuốc giữa đêm thâu

Với pháp nhũ đầy vàng châu cảm mến.

 

Phục hổ thu đồ đệ

 

Ở núi sau Cửu Hoa Sơn có một nhà sư trẻ bước tới, người đó cưỡi con quái thú, đi men theo con đường nhỏ dọc bờ sông, phía trước có một đôi chim bay lượn dẫn đường. Đó là đôi gà vàng, sống đã được ngàn năm ở trên vách đá Cửu tử. Vị Hòa Thượng này tên gọi Kim Kiều Giác, mười một tuổi đã xuất gia làm Tăng, vốn là người có họ gần với quốc vương nước Tân La[1]. Nghe nói người này là Địa Tạng giáng sinh, mới cưỡi quái vật qua đường biển tới Cửu Hoa Sơn khai lập ra Địa Tạng Vương đạo tràng. Con quái thú đó không phải con gì khác mà tên gọi là Độc Giác Thiểm Điện Thú. Con thú chớp điện một sừng tục gọi là Tứ Bất Tượng[2]nhìn được xa, chạy được nhanh, tất cả các loài dã thú đều phải sợ nó. Cho nên cưỡi nó đi thường để phòng địch.

Hôm ấy, Kim Địa Tạng theo Kim Kê (gà vàng), đến Cửu Tử Nhai, vừa nhìn đã thấy đây quả là nơi tu hành rất tốt. Kim vừa đi vừa nhìn không ngớt lời khen ngợi. Khi Kim vừa đặt chân lên một tảng đá lớn, còn chưa đứng vững đã nghe một tiếng nổ vang trời, núi sụt lở xuống một nửa. Kim Kê sợ quá bay mất một con, còn một con thì co đầu rụt lại không dám động đậy. Độc Giác thú rất tinh nhanh, không chờ Kim Địa Tạng rơi xuống chân núi đã vội vàng chạy tới trước mặt phò Kim Địa Tạng bay vút lên trời, trong nháy mắt đã tới Thiên đài. Chưa đặt chân xuống đất đột nhiên gió yêu quái nổi dậy khắp bốn phương mây đen cuồn cuộn, cát bay đá chạy, sương mù đen kịt từng lớp. Chính trong lúc này, Kim Địa Tạng đã phát hiện ở trên vách đá có một hang núi lóe sáng. Độc Giác thú liền chui vào trong hang đặt chân. Trong hang có một chiếc đài đá, xán lạn đường hoàng, hang tuy không to nhưng quả là nơi tránh gió trú mưa tốt. Người lấy từ trong túi quyển kinh, đặt ở trên đài, rồi khoanh tay lại nhắm mắt đọc kinh.

- Cứu tôi với! Cứu tôi với! - Đột nhiên từ nơi xa truyền lại tiếng kêu cứu. Liền theo sau đó là tiếng gió thổi, hổ gào kinh thiên động địa.

Kim Địa Tạng vội vàng ra khỏi động, nhìn về phía có tiếng hổ gào, thấy ở trên núi trước mặt có một con mãnh hổ đuổi theo một đứa trẻ con. Người xuất gia làm gì có đạo lý nhìn thấy người sắp chết mà không cứu! Nghĩ đến đây, Kim lập tức cưỡi lên con thú một sừng, kẹp chặt hai chân vào lưng thú nói:

- Đuổi!

Thú một sừng lập tức tung bốn vó bay lên trên không trung như người cưỡi mây đạp sương mù, đuổi theo mãnh hổ. Lúc này, đứa trẻ chạy thục mạng ở phía trước, mãnh hổ đuổi sát theo sau. Mắt nhìn, Kim thấy đứa trẻ sắp bị hổ ăn thịt, Kim Địa Tạng liền từ trên thú một sừng nhảy xuống, nói:

- Bắt con hổ dẫn lại gặp ta!

Thú một sừng liền nhằm thẳng vào mãnh hổ xông tới, một người hai thú chạy thành một sợi chỉ.

Đứa trẻ bị mãnh hổ đuổi đến mức mê man, phải chuyển hướng, lại nhìn thấy con quái thú một sừng cũng đuổi gấp, thật là sợ hết hồn hết vía. Chạy quanh mãi, quanh mãi, bỗng trước mắt xuất hiện một bức tường đá, chận mất đường đi. Mãnh hổ há hốc mồm to tướng đỏ lòm đầy máu chạy tới. Đứa trẻ sắp rơi vào miệng hổ. Bỗng một luồng chớp sáng, Độc giác thú uốn mình, đứng thẳng. Mãnh hổ vốn chẳng coi Độc Giác thú uốn mình, đứng thẳng. Mãnh hổ vốn chẳng coi Độc giác thú là cái thá gì, miệng hoác rộng gào to lên một tiếng, xô tới vồ. Độc giác thú hơi né mình sang một phía khiến cho hổ vồ hụt. Đứa bé sợ đến mức không biết tiến lên hay lùi xuống, không biết nên tránh về hướng nào. Lúc này, từ bức tường đá bỗng nhiên xuất hiện một cửa hang, đứa trẻ vội vàng nấp vào trong đó. Mãnh hổ nhìn thấy, lại sợ mất miếng mồi đã kề tận miệng, cũng lui vào trong hang theo đứa bé. Ai ngờ, không chui vào hang thì thôi, vừa chi vào thì mãnh hổ đã sợ hãi. Chỉ nhìn thấy một luồng ánh sáng vàng chiếu thẳng làm cho mãnh hổ không thể động đậy được nữa. Té ra là Kim Địa Tạng đã chờ sẵn ở trong hang. Kim Địa Tạng phất áo cà sa, nhìn vào mãnh hổ nói:

- Nghiệt súc to gan! Cớ sao dám giết hại mạng người! Tiếng nói vừa buông, lại có một đạo hào quang vàng chói chiếu thẳng vào mãnh hổ. Một tiếng thét lạ lung, con mãnh hổ lông vằn vừa nhảy nhót hung dữ, bỗng chốc đã biến thành một con hổ đá, vĩnh viễn không động đậy được nữa.

Đứa bé nhìn thấy rõ ràng, hiểu rõ sự việc như thế nào, vội vã “lục cục” quỳ xuống trước mặt Địa Tạng, vái lạy lia lịa.

Kim Địa Tạng nhắm chặt đôi mắt, khoanh hai tay nói:

- A Di Đà Phật! Về nhà đi thôi!

Đứa bé nói:

- Thành tâm tu hành, không kể lớn bé. Một ngày sư phụ không bằng lòng thì một ngày đồ đệ con không dám đứng dậy.

Kim Địa Tạng trả lời. Cứ xếp bằng ngồi trước mặt hổ đá, người chỉ nhắm mắt khoanh tay, miệng đọc chân kinh. Đứa bé đã quỳ suốt ba ngày ba đêm, không một lời kêu khổ. Kim Địa Tạng thấy đứa bé có tấm lòng thành mới mở miệng nói:

- Tuổi nhỏ lòng thành, ta nhận làm học trò. Hãy đứng dậy!

Địa Tạng nhìn thấy đứa bé mặt mày đoan chánh, đôi mắt có thần, cho nên đặt pháp danh cho nó là Đạo Minh.

Đứa bé vui mừng liền sụp lạy. Đứa bé này không phải ai khác đó chính là con trai đại tài chủ Mẫn Công ở Cửu Hoa sơn. Đó là đồ đệ đầu tiên mà Kim Địa Tạng thu nhận ở Cửu Hoa Sơn.

*

Sau khi Kim Địa Tạng thu nhận Đạo Minh, thấy đồ đệ này rất nghe lời, trong lòng rất vui mừng. Hôm đó, người căn dặn Đạo Minh không được ra ngoài, phải trông coi ở trong hang, tĩnh tâm dưỡng tính. Bản thân người xuống núi hóa duyên, chuẩn bị xây chùa.

Kim Địa Tạng khoác áo cà sa vừa ra khỏi hang đá đang định xuống núi thì có một ông lão bước thẳng tới, cong lưng vái lạy nói:

- Xin hỏi sư phụ, có nhìn thấy một đứa bé mặt tròn, mắt to không?

Kim Địa Tạng nhìn thấy ông lão mặc lụa đeo vàng, biết ngay là người giàu có liền chắp tay trả lời:

- A Di Đà Phật! Tìm nó có việc gì?

Ông lão này chẳn phải ai khác, mà chính là đại tài chủ Mẫn Công ở Cửu Hoa Sơn. Mẫn Công nói:

- Chẳng phải là sư phụ đã nhìn thấy nó rồi ư? Nó là con trai của tôi. Mấy ngày rồi nó chưa về, làm tôi lo sợ muốn chết. Xin hỏi sư phụ, hiện nay cháu ở đâu?

Kim Địa Tạng nói:

- Đang ở trong hang.

- Tại sao không ra ngoài?  -Mẫn công hỏi.

- Vì cháu đã xuất gia theo bần Tăng rồi.  –Kim nói.

- Xuất gia ư? Mẫn Công nghe vậy vô cùng tức giận nói: Tôi chỉ có một đứa con trai, chỉ dựa vào nó để kế truyền nòi giống, sao có thể xuất gia được? Mong cầu sư phụ, hãy tha cho con trai tôi về -Mẫn Công nói rồi vái lạy liền liền.

Kim Địa Tạng nói:

- A Di Đà Phật! Bây giờ ông bắt nó trở về sợ rằng nó cũng không trở về đâu!

Mẫn Công vội “lục cục” quỳ xuống trước mặt Địa Tạng, van nài:

- Con tôi còn bé, nó không thể xuất gia được. Tôi muốn con trai tôi trở về!  -Sau đó ông cụ hướng vào trong hang gọi to:

- Con ơi, về nhà với cha đi! Đôi mắt của mẹ con khóc sắp mù rồi! Con ơi! Có lẽ nào ngay đến cả gia đình con cũng không cần nữa. Cha van con, con hãy trở về nhà cùng với cha!

Đạo Minh ở trong hang nghe thế rất đau lòng, liền bước ra cửa hang quỳ xuống trước mặt người cha, đem chuyện gặp hổ được sư phụ cứu thoát, trước sau kể hết một lượt, lại nói rõ đã xuất gia rồi, quyết không về nhà nữa.

Mẫn Công biết con trai mình là một người nói một không hai, liền lại quỳ xuống gập đầu vái lạy Kim Địa Tạng nói:

- Đại ân của sư phụ cứu sống con trai tôi, tôi quyết không dám quên. Cúi mong sư phụ đại từ đại bi tha cho con trai tôi trở về nhà, sư phụ cần gì tôi xin có nấy.

Kim Địa Tạng nói:

- A Di Đà Phật! Tôi đã là người tu hành, không cần cái gì cả, chỉ muốn mượn ở quý sơn đây một miếng đất để dựng chùa, đã là mãn nguyện lắm rồi.

Mẫn Công nói:

- Được! Được! Được! Ơn cứu sống con trai tôi của ân sư, đang không biết đền đáp như thế nào, đừng nói một miếng đất, dù có cần trăm miếng, ngàn miếng cũng xin tùy  tiện. Chín mươi chín ngọn núi này đều thuộc tôi quản lý. Ân sư nhìn ưng chỗ nào, cần bao nhiêu tôi cho bấy nhiêu.

Kim Địa Tạng nói:

- Tôi chỉ cần một mảnh đất bằng chiếc áo cà sa thôi!

Mẫn Công cảm thấy kỳ lạ nói:

- Mảnh đất bằng chiếc cà sa thôi ư? Áo cà sa to được bao nhiêu? Ít ỏi quá! Để tôi dẫn ân sư đi chọn.

- A Di Đà Phật!

Kim Địa Tạng đứng dậy định đi, trước mặt tự nhiên xuất hiện một luồng ánh sáng thần. Người đi theo luồng ánh sáng thần ấy, Mẫn Công đi theo sau. Họ lên tới đầu ngọn núi, nhìn thấy luồng ánh sáng thần vòng quanh đầu núi một vòng, tiếp sau đó tỏa ánh sáng hào quang rực rỡ. Kim Địa Tạng cho rằng đây là thần linh tái hiện, đó là mảnh đất quý báu, liền luôn miệng niệm “Nam mô A Di Đà Phật” rồi hướng về bốn phương vái lạy liền liền.

Trái lại, Mẫn Công không nhìn thấy gì hết, chỉ thấy Kim Địa Tạng vái lạy tứ phương, cảm thấy rất kỳ quái, trong lòng nghĩ, có lẽ nào lão sư phụ nhìn thấy ở đây có vẻ hơi nhỏ một tí chăng?

Tức thì liền nói với Địa Tạng:

Thưa ân sư, ngọn núi này hơi bé quá phải không?

- Không bé! Không bé!

Kim Địa Tạng lại hỏi:

- Nơi đây tên gọi là gì?

Mẫn Công nói:

- Nơi đây núi hoang ngọn nhỏ, làm gì có tên.

Kim Địa Tạng nói:

- Vừa ban nãy tôi nhìn thấy một luồng ánh sáng thần, vậy đặt tên là “Thần Quang Lĩnh” được không?

- Thần Quang Lĩnh à?

Mẫn Công nói:

- Được, được, được! Thế nhưng ngọn núi nhỏ này đã mấy đời nay chúng tôi đều không để ý tới, cũng chưa hề nhìn thấy thần quang, thế nhưng ở đây không được rộng lắm, tôi nghĩ, có lẽ ân sư nên chọn mảnh đất khác thì tốt hơn.

Kim Địa Tạng nói:

- Đây là Thần Quang bảo địa, hay là thí chủ còn có chút luyến tiếc chăng?

Mẫn Công vội nói:

- Ân sư nói điều gì lạ thế chứ! Không phải là tôi luyến tiếc đâu, nếu trao ngọn núi nhỏ bé này cho ân sư, quả thật là tôi rất áy náy. Những chỗ tốt đẹp hơn nơi đây còn rất nhiều. Vì sao ân sư lại chỉ thích ở chỗ này? Có lẽ nào ân sư thật lòng chỉ muốn một mảnh đất bằng một áo cà sa?

Kim Địa Tạng nói:

- Bần Tăng nói lời thật đó!

Mẫn Công nói:

- Vâng được! Vâng được! Xin tuân ý ân sư.

- Thí chủ đã bằng long, chỉ cần mảnh đất bằng một áo cà sa, nhiều hơn một chú cũng không cần.

Kim Địa Tạng vừa nói vừa trải chiếc áo cà sa xuống, vặn mình một cái, áo bay lên không. Cà sa lập tức biến thành cái võng trời, bỗng chốc chụp kín hết cả chín mươi ngọn, lại còn chụp thêm cả một nửa thành Thanh Dương. Thành Hoàng lão gia nhìn thấy ánh sáng thần chiếu tới, sợ quá phải chạy ra ngoài thành. Cho nên miếu Thành Hoàng của Thanh Dương ở ngoại thành là vì lẽ đó. Ngọn Thần Quang cũng thành tên từ đó.

Mẫn Công nhìn thấy Kim Địa Tạng Phật pháp vô biên, vội vã sụp quỳ xuống đất vái lạy nói:

- Ân sư bề trên xin nhận của đồ đệ một vái. Khẩn cầu sư phụ thu nhận con làm đồ đệ!

Và như vậy Mẫn Công đã là đồ đệ thứ hai của Kim Địa Tạng. “Tiên tiến sơn môn vi Trưởng lão”, (Ai đến cửa núi trước thì được làm Trưởng lão trước) cho nên Mẫn Công đã gọi con trai là sư huynh để cho nó đứng bên tả. Mẫn Công là sư đệ, đứng ở bên hữu Kim Địa Tạng.

Mẫn Công không những đã đem hết gia sản cúng cho Kim Địa Tạng xây dựng chùa, mà còn đến tất cả các đại tài thân cư sĩ ở Thanh Dương quyên cúng để hóa duyên dựng chùa. Các cư sĩ lên núi gặp Kim Địa Tạng, thấy ngài ở hang đá, nuốt đất trắng, ăn bột vàng, từ nơi xa xôi vạn dặm đến khổ tu ở Cửu Hoa Sơn, về nhà cũng đem cúng hết vàng bạc cùng hợp lực với Mẫn Công xây nên chùa Hóa Thành, mời Kim Địa Tạng dọn vào trong chùa ở. Bắt đầu từ đó Cửu Hoa Sơn đã trở thành Địa Tạng đạo tràng, biến thành thánh địa của Phật giáo. Ở Cửu Hoa Sơn chùa miếu mọc lên nhiều như cây rừng, Tăng Ni có hàng ngàn hàng vạn, hương khói nghi ngút quanh năm không tắt, cho nên còn có tên gọi là “Nước Phật Liên Hoa” – Hoa sen của nước Phật

Truyện Bồ Tát

Nhà xuất bản Văn Hóa

Địa ngục còn tội nhân

Ta thề chưa thành Phật.

 

Đóa hoa vương quốc

 

Hôm ấy, tại rừng cây mát mẻ gần thị trấn Desaka, nước Sumedha, trước hội chúng Tỳ Kheo, đức Thế Tôn đã dạy như sau:

- Này chư Tỳ Kheo! Ở đây là thị trấn Desaka, được nổi danh là trù phú, đẹp đẽ, thạnh mầu. Đời sống vật chất ở đây thật là sung túc, thạnh mãn. Khắp cá đường phố, người ta chưng bày hàng hoa tươi mắt, khêu gợi lòng tham. Sau các cửa sổ có rèm lụa và trước cửa mọi nhà, những cô gái mỹ miều, duyên dáng được phục sức và trang điểm bằng châu báu, hương thơm và tràng hoa. Các trò du hí, hoan lạc với trống đánh và kèn thổi, những nhạc ca du dương trỗi lên như sân khấu ở cõi trời.

- Này các Tỳ Kheo! Thật là dễ dàng thay cho các thầy khi đi trì bình khất thực, với cơm và bánh, với thức ăn cứng và mềm vừa đủ no lòng. Mà cũng thật là khó khăn thay cho các thầy, khi phải thu thúc lục căn, trang nghiêm thân, trang nghiêm giới, sống đời tiết độ, chánh hạnh mà không xao động, không có rối loạn tâm, không có chao đảo trí.

Sau khi giáo giới như vậy, đức Bổn Sư tiếp giọng Phạm âm, như tiếng sấm giọng giữa hư không lúc trời mưa:

- Này các thầy Tỳ Kheo! Hãy nghe đây! Đứng trên đỉnh cao ngàn trượng còn dễ dàng hơn là thấy sắc đẹp của mỹ nhân mà không nhìn. Đứng trên bờ hố than hồng còn dễ dàng hơn là trước âm thanh quyến rũ của tiên nữ mà không nghe! Suy ra, mùi hương, vị ngon, xúc chạm êm ái đều là như vậy cả!

Này các thầy! Các thầy nghĩ thế nào? Ví như có một cô gái đẹp với tấm xiêm lụa mỏng như mây trời, được phô bày trọn vẹn thân vóc ngọc ngà với các đường cong uốn lượn. Cô gái ấy đang múa một khúc điệu lả lơi gợi tình, hát một giọng hát như bồ câu gọi bạn, như hoa gọi bướm… Nếu có một gã thanh niên trẻ trung, khí huyết dư tràn, hai tay bưng hai bát dầu đầy có ngọn, buộc phải đi qua chỗ cô gái ấy. Tên đao phủ của vua cầm kiếm đi sau, nói với thanh niên rằng: “Này người kia! Không được nhắm mắt, không được bịt tai, hãy đi qua chỗ mỹ nhân. Chỗ nào ngươi làm rơi một giọt dầu, chỗ ấy đầu của ngươi sẽ lìa khỏi cổ. Nếu ngươi đi qua hết chỗ mỹ nhân, mà không có một giọt dầu nào rơi ra ngoài, ngươi sẽ được một ngàn đồng tiền vàng”.

- Này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy nghĩ thế nào? Một ngàn đồng tiền vàng dễ dàng bỏ vào túi hay khó bỏ và túi?

Được chư Tăng trả lời là “Khó thay!”. Đức Phật tiếp:

- Này các thầy! Thật dễ dàng thay là một ngàn đồng tiền vàng! Tại sao vậy? Vì người thanh niên ấy sợ cây kiếm, sợ đầu rơi khỏi cổ, sợ mất tính mạng mình nên y sẽ thận trọng, cố gắng tỉnh giác. Và do như vậy, y sẽ dễ dàng đi qua chỗ mỹ nhân mà không hề làm rơi một giọt dầu nào!

Để cho chư Tỳ Kheo lãnh hội sự thật đã được khéo giảng thuyết, khéo ví dụ. Đức Thế Tôn lại tiếp:

- Này các thầy Tỳ Kheo! Bậc hiền trí thuở xưa, không có cây gươm hăm dọa đi sau. Và sự thử thách, cạm bẫy, cám dỗ không phải chỉ thời gian một hồi trống, mà suốt bảy ngày bảy đêm trên đường trường, bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào. Sự thử thách, cám dỗ, cạm bẫy, không phải chỉ một mỹ nhân, mà thật sự là thiên sắc, thiên âm, thiên hương, thiên vị, thiên xúc! Thế mà bậc hiền trí vẫn không phóng dật, an trú niệm, cột giữ các căn, suốt năm mươi do tuần, đi đến nơi đến chốn, không chỉ đạt được một ngàn đồng tiền vàng mà đạt được cả quốc độ.

Nói thế xong, đức Thế Tôn im lặng. Sau khi chư Tỳ Kheo thưa thỉnh ba lần, Ngài mới kể chuyện quá khứ đã quên vào dĩ vãng như sau:

- “Thưở đức vua Brahmađatta trị vì vương quốc Ba La Nại, Ngài có một trăm người con, và Bồ Tát là Hoàng tử trẻ nhất. Đức vua có nhiều từ tâm và giàu lòng bố thí. Hằng ngày trong cung điện, bao giờ cũng có vị Độc Giác Phật từ Hy Mã Lạp Sơn đến dùng cơm. Nhà vua cúng dường không mệt mỏi, không có thối thất. Bồ Tát, tức Hoàng tử Út, hoan hỷ việc làm của vua cha, nên thành tâm cung kính phục vụ các vị ấy không thiếu thứ gì.

Một hôm, Hoàng tử suy nghĩ:

- Ta có những chín mươi chín người anh, nhưng chỉ có một vương quốc. Bây giờ vua cha còn tại thế, với tình thương đồng đều, ai cũng có chút ít của cải, tài sản. Nhưng chẳng biết khi vua cho thăng hà, ta sẽ thế nào? Chốn vương vị, lợi danh dễ đổ máu và dễ mê đắm long người! Nếu biết là chỗ nguy hiểm thì ta nên tránh xa. Các vị Độc Giác Phật này có thần thông biết quá khứ, vị lai. Vậy ta hãy đem điều đó hỏi quý Ngài.

Ngày sau, khi các vị Độc Giác Phật đến, Hoàng tử đem lại bình tịnh thủy, lọc nước, rửa chân cho các vị ấy, lau cho khô với khăn vải sạch, dâng cúng các món ăn thượng vị. Sau khi các Ngài dùng xong, Hoàng tử dâng nước và tăm xỉa răng, khăn trắng lau tay. Khi các Ngài đã ôm bát, Hoàng tử đến đảnh lễ, ngồi xuống một bên và trình bày sự thắc mắc của mình:

- Thưa các bậc ẩn sĩ thanh tịnh! Con ở chỗ cõi trần, mắt thịt tối tăm và dầy bụi, thật khôn biết chỗ nào trong, chỗ nào đục; không biết chỗ nào tốt, chỗ nào xấu, không biết chỗ nào nên ở, chỗ nào nên đi! Tương lai thật là mù mịt, bấp bênh và vô định. Vậy xin các Ngài từ bi chỉ giáo cho con, việc nên làm và việc không nên làm, để an lạc lâu dài cho con về sau!

Vị Trưởng lão Độc Giác Phật chăm chú nhìn Hoàng tử một hồi rồi khẻ nói:

- Hoàng tử có thể tưởng tượng được cái rộng lớn vô cùng của hư không và biển cả chứ?

- Dạ! Con tưởng tượng được.

- Những tư duy, những vấn đề, những câu hỏi của Hoàng tử cũng thật là mênh mông, rộng lớn như vậy. Đấy là những tìm kiếm một đời, hai đời, nhiều trăm ngàn đời của những ẩn sĩ cô độc giữa rừng sâu, của những hiền triết, đạo nhân từ ngàn xưa cho đến ngàn sau vậy. Ở đây, Hoàng tử đặt vấn đề có giới hạn hay không có giới hạn?

Hoàng tử chợt ngỡ ngàng, bối rối, lúng túng:

- Bạch! Tâm trí con chưa đủ rộng lớn để đặt những vấn đề mênh mông, vô giới hạn. Ở đây, thật nhỏ bé và tầm thường là tương lai và hạnh phúc của một đời người. Tương lai và hạnh phúc của một đời người lại phải được giới hạn nơi những nhu cầu tối thiểu, giản dị nhất. Con sẽ có thí dụ. Ví như một hạt hoa nằm trong trái chín, đến thời kỳ vỏ sẽ nứt ra và hạt bung ra. Cái hạt ấy cần phải nương gá vào một chỗ nào đủ đất, đủ nước, đủ không khí, đủ ánh sáng, không sâu bọ, để nó có khả năng lớn lên, đón sương, đón gió, đón ánh trăng, nắng ấm…mà sống đời an lạc và cho sắc, cho hương! Bạch các Ngài! Con chỉ muốn như hạt hoa ấy. Là vấn đề giới hạn của con!

Vị Trưởng lão Độc Giác Phật hoan hỷ mỉm cười:

- Thật khiêm tốn thay là ước mơ của một vị Hoàng tử. Vì tâm đức của Hoàng tử nên ta tiết lộ cho Hoàng tử hay:

- Cái hạt hoa ấy không thể sống an lạc, cho sắc, cho hương ở trong quốc độ này. Nói cụ thể hơn, Hoàng tử không thể được vương quốc.

- Phải rồi! Hoàng tử nói. –Mà chính điều đó con cũng không muốn. Nếu vua cha mà truyền ngôi cho con, con cũng không thể nhận. Bỏ trưởng mà lập thứ là mẩm họa hại và loạn ly ở trong nước. Con muốn nói rằng: con có thể có một ít của cải và tài sản để sống chung với các anh con một cách thuận hòa và tốt đẹp chăng?

- Ngay chút ít tài sản và của cải ấy cũng không có trong vương quốc này. Cái hạt hoa ấy mà rơi xuống quốc độ này, nó sẽ không tồn tại, huống hồ cho sắc, cho hương!

Sợ rằng vị Hoàng tử hiền lương này sẽ đau khổ, Vị Trưởng lão Độc Giác Phật nói them:

- Tuy thế, nó sẽ có môi trường khác. Sức bung của hạt hoa ấy phải xa mạnh hơn chút nữa, nó sẽ gặp môi trường thuận lợi. Không những nó sống mà còn tăng trưởng mạnh, cho nhiều sắc hương, tươi thắm và nồng đượm!

Hoàng tử như vịn được chiếc phao trong dòng biển lớn:

- Xin Ngài từ bi chỉ dạy!

- Cách đây rất xa, vị Trưởng lão Độc Giác Phật nói - tại nước Gandhara, thành phố Takkasilà – Hoàng tử mà đi đến đó được trong vòng bảy ngày thì Hoàng tử sẽ đạt vương quốc. Nhưng biết Hoàng tử có thể tới nơi tới chốn bình an được chăng? Khi mà trên đường đi thật vô cùng nguy hiểm!

Hoàng tử gật đầu mạnh mẽ:

- Con thật không dám đại ngôn khi nói rằng: Chắc chắn con có thể tới được!

Vị Trưởng lão Độc Giác Phật như đọc được ý chí và bản lãnh trong con người này, nên tiếp:

- Có hai con đường để đi đến vương quốc Gandhara. Một đường đi vòng quanh khu rừng, ít nguy hiểm nhưng xa đến một trăm do tuần. Thời gian một tuần chẳng thể đi kịp. Con đường thứ hai đi băng qua những khu rừng, chỉ năm mươi do tuần, đi suốt ngày suốt đêm thì có thể đến kịp. Nhưng con đường ngắn này vừa cheo leo hiểm trở, vừa độc trùng thú dữ, lại vừa bị sự thử thách, cám dỗ của phi nhơn, ma quân. Hoàng tử thử liệu sức mình như thế nào? Muốn lấy được vương quốc thật không dễ gì! Hay là thôi đi cái ý định ấy? Đến được Gandhara mà vô sự, yên ổn còn khó khăn hơn là bằng hai tay mà bơi qua biển lớn, Hoàng tử hãy nghĩ lại.

- Cái thế của con là phải lấy đóa hoa ấy – Đóa Hoa Vương Quốc – Con lấy được!

- Vậy con hãy lên đường ngay! Vị Độc Giác Phật ban lời dạy - Điều phải ghi nhớ nằm lòng, đinh ninh như nhất, là dầu gặp hoàn cảnh nào cũng phải an trú chánh niệm, thu thúc lục căn, giới hạnh trong sáng như trăng rằm, nhu cầu khổ hạnh, bảy ngày bảy đêm tinh tấn, tỉnh thức, không một niệm biếng nhác, thối thất hay dễ duôi. Và như thế, vương quốc sẽ ở trong tay Hoàng tử. Bây giờ ta cho vật hộ thân. Nhưng nên nhớ, vật hộ thân này chỉ bảo vệ tốt những kẻ không có tà khí!

Nói thế xong. Ngài niệm chú một hồi rồi trao cho Hoàng tử một lá bùa bằng cát cùng một sợi chỉ. Lại còn dặn:

- Bình thường, để trên ngực, giữ chánh khí thì được an! Lúc cảm thấy nguy hiểm nhất, lấy bùa này, lấy chỉ này, cột lên búi tóc, thì tất cả các loại phi nhơn, từ sáu cõi trời dục giới trở xuống, chư Thiên thì giúp đỡ, hộ trì, còn ma quân, Dạ xoa, A tu la thì không dám lại gần, huống nữa là xúc phạm!

Trao bùa xong, tất cả các vị Độc Giác Phật biến mất giữa hư không mà về Hy Mã Lạp Sơn.

*

Hoàng tử đến từ giã vương phụ và mẫu hậu, từ giã những người thân tín, bằng hữu, tay chân thuộc hạ rồi nói rõ ý định của mình. Có năm người trong chúng xin đi theo.

Hoàng tử khuyên:

- Không được đâu! Ta tin vào ta nên ta đi. Còn các bạn, sợ rằng sự nguy hiểm, sự cám dỗ sẽ lấy đi tánh mạng ở dọc đường. Đừng làm việc gì quá sức mình.

Năm người tùy tùng đồng thanh nói rằng:

- Đi với Hoàng tử làm sao chúng tôi dám sợ nguy hiểm và bị cám dỗ?

Chẳng đừng được, Hoàng tử phải để cho họ đi theo với nhiều lần cẩn thận dặn bảo.

Họ khoác hành trang lên đường khi trời đất còn mờ sương. Họ tiết giảm tối đa thời gian nghỉ ngơi và ăn uống. Ngày thứ nhất, họ đến địa đầu khu rừng được an toàn. Nghĩ đến lời dặn của vị Trưởng lão Độc Giác Phật, Hoàng tử nói với thuộc hạ:

- Núi rừng tươi đẹp, cây xanh mát mẻ, chúng ta sẽ bộ hành thoải mái, không mất sức. Nhưng bắt đầu từ đây, ta phải cảnh giác, an trú niệm.

Vượt qua khỏi cụm rừng đầu tiên thì bong chiều đã ngả, bóng cây xèo tán, sương mờ huyền ảo. Một con suối sực nức mùi hương hiện ra trước tầm mắt như một phép lạ! Một xóm nhỏ với lầu các, với những căn nhà nhỏ xinh xinh, rực rỡ hoa treo và đèn kết, nằm thanh thản, bình yên trên nền đá trắng với những cụm hoa vàng, hoa da cam, hoa màu tía nhạt. Cả đoàn bâng khuâng dừng lại. Con đường mòn chạy viền bãi cỏ xanh như dải lụa bạch. Chiếc cầu đá lơ thơ liễu rũ. Một cô gái đẹp như tiên nga bước qua bằng gót sen yểu điệu. Tay vịn cành liễu, nụ cười đẹp mê hồn, cất giọng oanh vàng thỏ thẻ:

- Xin Hoàng tử hãy tạm dừng gót phong vân! Đây là “Đào Nguyên phong nguyệt quán”, nọ là “Nhất dạ mê hồn lâu” –Là chốn phong lưu, là non Bồng trên trần thế. Trời đã tối, lộ trình còn xa, sao không ghé qua đêm cho chúng thiếp được quạt hầu bên gối? Hoa nở chóng tàn, đêm xuân nào mấy khắc? Hãy vui đi cho khỏi uổng phí ngày xanh!

Nói thế xong, một đoàn tiên nữ vén mây bước ra, xiêm áo mỏng như làn sương, dáng ngà uyển chuyển, vóc ngọc lồ lộ, ấp úng thẹn thùa, nụ cười gợi tình, da môi run rẩy…

Năm người tuỳ tùng tim đập bồi hồi, đôi chân như sụm xuống, không cất bước đi nổi nữa. Hoàng tử một thoáng rung động, nhưng an trú niệm lại ngay, mắt nhìn thẳng, chân bước đều, an nhiên hùng dũng như viên hổ tướng. Năm thuộc hạ thấy thế như được hồi sinh, dẫu uể oải, tiếc rẻ nhưng cũng phải bước theo.

Bỗng một người đi chậm lại.

Hoàng tử nói:

- Sao ngươi không đi kịp các bạn?

            - Thưa Hoàng tử! Chân tôi bị đau. Chỉ cần ngồi nghỉ nơi xóm này một lát, lấy lại sức, tôi sẽ lên đường ngay!

Hoàng tử nhăn mày:

- Ngươi có biết rằng, chúng là phi nhơn, Dạ xoa. Chúng lấy sắc đẹp quyến dụ ngươi. Rồi qua một đêm, ngươi chỉ còn là một đống xương trắng. Hãy nhớ lấy!

Người kia cười lạt mà rằng:

- Dẫu sự việc có là như vậy, tôi cũng không đi được nữa, thưa Hoàng tử.

Nhìn thần sắc và nghe giọng nói, Hoàng tử biết khó mà lay chuyển được y, bèn thở dài mà than:

“Ôi sắc đẹp! Ngươi đã đánh thắng một người bạn của ta ngay chính nơi vương quốc dịu dàng, mê hoặc của ngươi!

Ngươi là mũi tên có tẩm độc, chập chờn hoa thắm hương thơm, bắn thẳng vào tim, không nhức đau, chỉ là vết thương êm ái!

Nhưng ta sẽ vĩnh viễn đánh bại ngươi!

Bằng an trú niệm, bằng sự tỉnh thức miên tục, trường kỳ!”

Rồi xót xa mà tiếp tục lên đường với bốn người còn lại.

Chàng trai đắm sắc, sau một đêm với đám mỹ nhân, thịt và máu của chàng chưa đủ một bữa tiệc đầy môi cho các Dạ xoa nữ.

Đêm thứ hai, năm người như đi lạc vào một thế giới âm thanh mê hoặc và xao xuyến lòng người. Đầu suối, triền non, lùm cây, thạch động…đâu đâu cũng vọng lại giọng ca tiếng hát dặt dìu. Xen lẫn vào giọng ca, tiếng hát và lời thỏ thể tình tự, là tiéng cười mời mọc, cả lơi… đôi khi như hờn yêu, nũng nịu…

Hoảng tử tỉnh thức ngay:

- Đấy là mật rót vào tai. Là lưỡi kiếm vô hình, vô ảnh xuyên ngọt vào trái tim của ý chí, vào khối óc kiên cường không một dấu tích. Hãy an trú niệm đi các bạn! Kẻ nào bạc nhược tâm hồn, sẽ nằm xuống vĩnh viễn nơi chiếc giường êm ái của Ma vương và không còn ngồi dậy được nữa.

Trên ngọn đồi thấp, một bầy tiên nữ ẩn hiện như hư như thực, như có như không. Một tiên nữ hiện ra dưới vòm hoa, cất giọng mời gọi như ngọc thốt:

- Đêm xuân nào mấy khắc. Chư lang quân hãy vào đây cùng chúng thiếp ôm đàn mà vỗ một khúc “Đáo nhập Thiên Thai!”.

Một người chợt đi chậm lại.

- Sao vậy? Hoàng tử hỏi -Lại đau chân nữa ư?

- Không! -Người kia lắc đầu –Tôi bị đau bụng?

Hoàng tử thoáng nghe nhạc điệu như chợt thay đổi, thánh thót và mê ly đến cùng cực. Thỉnh thoảng lại xen lẫn vài tiếng rên ư ử dâm dật, tiếng thốt khẽ như đau đớn, như khoái lạc. Hoàng tử tỉnh thức cao độ mà trái tim vẫn rung động mấy lần. Chàng cắn răng, kiên gan chờ đợi kẽ đồng hành của mình mà thầm nghĩ: một khắc thất niệm của mình thì ở đây, ngày mai, sẽ là năm đống xương trắng!

- Hoàng tử hãy đi đi! -Người kia mê loạn nói –Tôi sẽ tình nguyện chết ở đây!

Hoàng tử thở dài, lấy tất cả ý chí và sức bình sinh thốt lên một lời ca chưa từng được nghe:

- Hỡi thiên âm ma quân! Ngươi đã thắng!

Chiếc cầu vồng ngũ sắc âm thanh của ngươi đã êm ái đưa linh hồn bạn ta đến chỗ khoái lạc và tử vong!

Ta hát lên, tán thán cái tài quyến dụ mê hoặc của ngươi, còn mạnh hơn thiên binh vạn mã. Còn va động khủng khiếp hơn dao đá và kiếm sắt. Lời một thân chiến tượng, làm cùn nhục ý chí và dõng lực kiên cường của một thần mã nòi giống Sindhu tối thượng.

Nhưng, chiếc lưới mịn màng và vô hình của ngươi không buộc được gót chân của đệ tử bậc ẩn sĩ.

Lại một lần nữa, đệ tử bậc ẩn sĩ đã đánh bại ngươi, hỡi thiên âm ma quân! Ta đánh bại ngươi mà ngươi không tử thương, ngươi không tàn úa dẫu một cánh hoa. Ta đánh bại ngươi bằng tâm niệm hòa bình, trung chính và an tĩnh. Vũ khí duy nhất và tối hậu của ta là “an trú niệm, là sự tỉnh thức miên tục, trường kỳ!”

Hát thế xong, biển âm thanh của Dạ xoa nữ chợt ta mất trong hư không, Hoàng tử cùng ba người còn lại tiếp tục lên đường. Nhưng kẻ còn lại, sáng mai chỉ còn là một đống xương trắng.

Tuần tự là như vậy, Hoàng tử vượt qua, vượt qua.

Nhưng, đến khu rừng “thiên hương” kẻ mê đắm hương rớt lại. Đến chỗ khu rừng “thiên vị” người mê đắm “vị” rớt lại. Đến chỗ khu rừng “thiên xúc” kẻ mê đắm “xúc” rớt lại. Hoàng tử là chiến sĩ duy nhất và cuối cùng hiên ngang bước qua năm cạm bẫy mà không cần lấy chỉ cột bùa cát lên búi tóc.

Chúa Dạ xoa nữ bặm môi, trợn mày họp đoàn Dạ xoa lại:

- Các ngươi là đồ ăn hại – Chúa Dạ xoa hét the thé, chỉ có sáu con mồi mà cũng để cho vuột một con. Hãy chịu tội đi!

Đoàn Dạ xoa đồng quỳ xuống:

- Xin chúa tha tội!

Chúa Dạ xoa gầm lên giận dữ:

- Oan chăng?

Cả bọn đồng thanh tâu:

- Chúng con oan. Chúng con thất là hết khả năng. Làm sao chúng con lại đủ khả năng đánh bại đệ tử của bậc ẩn sĩ?

Nghe nói vậy, chúa Dạ xoa nữ dịu giọng:

- Thế à? Nếu y đúng là đệ tử chơn truyền của các vị ẩn sĩ ở Tuyết Sơn thì ta tha tội cho.

- Xin chúa ra tay, và túm trái tim của nó – Chúng tâu.

Nữ chúa Dạ xoa chợt hóa hình thành một con quỷ sáu đầu, mười hai tay, mười hai chân, cất giọng cười ngạo mạn rúng động cả hư không:

- Ta mà ra tay thì thầy của y, ta cũng quấn trong xiêm huống hồ là tên đệ tử! Rồi vênh váo quát: Cho các ngươi lui! Khi nào có lệnh phải tụ họp đầy đủ trong nháy mắt. Để phần tên trẻ ranh cứng đ

Bình luận

ĐĂNG KÝ THIẾT KẾ

CHAT VỚI

X HOME - THINKDIFFERENTLY * NGÔI NHÀ ĐẶC BIỆT - SUY NGHĨ KHÁC BIỆT chuyên thiết kế, thi công xây dựng, nội thất, sơn bả thạch cao, mỹ thuật, sân vườn tiểu cảnh, cây cảnh, cây công trình. Hotline: 0965.163.169 - 0975.163.169 - 0949.163.169 - 0902.112.114 -